Những trường hợp viên chức được xem xét miễn, giảm trách nhiệm từ 1/7/2026
Luật viên chức (sửa đổi) có hiệu lực từ 1/7/2026 nêu rõ các trường hợp viên chức được xem xét loại trừ, miễn, giảm trách nhiệm.
Tại Kỳ họp thứ 10 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật viên chức (sửa đổi), có hiệu lực từ ngày 1/7/2026.
Luật viên chức (sửa đổi) có đề cập đến nội dung khen thưởng, xử lý kỷ luật đối với viên chức. Theo đó, viên chức được xem xét loại trừ, miễn, giảm trách nhiệm trong các trường hợp sau:
– Đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không vụ lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhưng vẫn gây ra thiệt hại vì lý do khách quan.
– Thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền cho phép và được cấp có thẩm quyền xác định đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung.
– Do bất khả kháng theo quy định của pháp luật.
– Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật và của cấp có thẩm quyền.
Việc loại trừ, miễn, giảm trách nhiệm đối với viên chức được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và của cấp có thẩm quyền.
Ngoài quy định nói trên, viên chức vi phạm các quy định của Luật viên chức (sửa đổi) và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, phải chịu một trong các hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, cách chức (với viên chức quản lý) hoặc buộc thôi việc. Viên chức còn bị hạn chế thực hiện hoạt động nghề nghiệp theo quy định của pháp luật có liên quan.
Viên chức bị tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo hoặc bị kết án về tội phạm tham nhũng thì đương nhiên bị buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Viên chức quản lý phạm tội bị tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ được bổ nhiệm.
Đối với hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức khiển trách, thời hiệu xử lý kỷ luật được quy định là 5 năm; với các hành vi vi phạm khác là 10 năm.
Thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn mà khi hết thời hạn đó thì viên chức có hành vi vi phạm không bị xử lý kỷ luật. Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật không áp dụng đối với viên chức là Đảng viên, có hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức khai trừ; có hành vi vi phạm quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; có hành vi xâm hại đến lợi ích quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp.
Thời hạn xử lý kỷ luật đối với viên chức không quá 90 ngày; trường hợp vụ việc có tình tiết phức tạp cần có thời gian thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hạn xử lý kỷ luật có thể kéo dài nhưng không quá 150 ngày.
Trường hợp viên chức đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm kỷ luật thì bị xem xét xử lý kỷ luật.
Thời gian điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự không được tính vào thời hiệu xử lý kỷ luật.
Nguồn: https://dantri.com.vn/noi-vu/nhung-truong-hop-vien-chuc-duoc-xem-xet-mien-giam-trach-nhiem-tu-172026-20251218114921150.htm